Tiếp địa chống sét (nối đất an toàn cho sét) là hệ thống cọc tiếp địa và dây dẫn liên kết để tiêu tán dòng điện sét xuống đất một cách an toàn. Hệ thống này thường gắn với các thiết bị chống sét như kim thu sét, dây chống sét trên đường dây, hoặc chống sét van (surge arrester) lắp tại trạm/đường dây. Mục đích là bảo vệ công trình điện khỏi tác hại của sét đánh thẳng và sét lan truyền.
Hệ thống nối đất làm việc (nối đất vận hành) là hệ thống nối đất phục vụ cho vận hành bình thường của thiết bị điện. Ví dụ điển hình là nối đất điểm trung tính máy biến áp phân phối 22/0,4kV (trung tính phía hạ áp) hoặc nối đất vỏ thiết bị để đảm bảo an toàn khi có sự cố rò điện. Hệ thống này nhằm duy trì điện áp tham chiếu ổn định và giúp các bảo vệ làm việc hiệu quả khi xảy ra sự cố chạm đất.
Trong lưới điện trung áp 22kV, đặc biệt là đường dây trên không và trạm biến áp phân phối, cả hai hệ thống nối đất làm việc và chống sét đều hiện diện. Ví dụ, ở một trạm biến áp 22/0,4kV kiểu treo, thường có cọc tiếp địa nối với chống sét van phía 22kV (tiếp địa chống sét) và cọc tiếp địa nối với trung tính phía 0,4kV (tiếp địa làm việc).
Vấn đề đặt ra: Có được phép đấu nối chung hai hệ thống này (dùng chung bãi tiếp địa/cọc tiếp địa) hay không? Nếu dùng chung, cần điều kiện kỹ thuật gì? Nếu phải tách riêng, lý do an toàn nào đòi hỏi như vậy? trong bài viết này chúng ta sẽ xem xét từ các góc độ văn bản pháp luật cho đến các yếu tố kỹ thuật.
Xem thêm:
5 yếu tố nền tảng vàng cho việc thiết kế chống sét hiệu quả
An Toàn Điện: Tại sao đường dây cao áp dễ bị phóng điện khi ở gần
Những khu vực nào có nguy cơ sét đánh nhiều nhất?
Quy định kỹ thuật trong các tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế
Tiêu chuẩn TCVN 4756:1989 – Quy phạm nối đất và nối không thiết bị điện [1]
Tiêu chuẩn TCVN 4756:1989 (Quy phạm nối đất và nối không các thiết bị điện) là tiêu chuẩn nền tảng lâu năm về an toàn nối đất. Tiêu chuẩn này phân loại nối đất thành nối đất làm việc, nối đất bảo vệ an toàn, và nối đất chống sét. Mặc dù TCVN 4756 không nêu trực tiếp việc “đấu chung” hay “tách riêng” hai hệ thống tiếp địa, nhưng có các quy định về điện trở nối đất cho từng mục đích, qua đó gián tiếp định hướng phương án thiết kế:
- Điện trở nối đất tối đa cho thiết bị điện >1000 V (mạng trung tính cách ly hoặc nối qua trở kháng) được quy định là 4 Ω. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn cho người và giúp dòng sự cố chạm đất đủ lớn để tác động bảo vệ. Đối với trạm biến áp phân phối nhỏ (≤100 kVA), TCVN 4756 cho phép điện trở nối đất tới 10 Ω trong một số trường hợp đặc biệt
- Tiêu chuẩn cũng gián tiếp đề cập nối đất chống sét: thông thường, điện trở nối đất cho hệ thống chống sét được yêu cầu không quá 10 Ω để đảm bảo tiêu tán hiệu quả dòng sét. Con số 10 Ω thường được coi là mức tối đa cho một cọc/bãi tiếp địa chống sét độc lập trong thực tế thiết kế.
Như vậy, theo TCVN 4756, nối đất làm việc (bảo vệ thiết bị) đòi hỏi điện trở nhỏ hơn nhiều so với nối đất chống sét. Điều này gợi ý rằng nếu hai hệ thống dùng chung một bãi tiếp địa, thì bãi tiếp địa đó phải thỏa mãn đồng thời yêu cầu khắt khe hơn (tức là ≤4 Ω, thậm chí thấp hơn tùy trường hợp). Tiêu chuẩn 4756:1989 không cấm nối chung, nhưng yêu cầu kỹ thuật về điện trở nối đất sẽ quyết định việc có nên nối chung hay không.
Tiêu chuẩn TCVN 9358:2012 – Lắp đặt hệ thống nối đất cho công trình công nghiệp [2]
Tiêu chuẩn TCVN 9358:2012 (thay thế TCXDVN 319:2004) quy định yêu cầu chung về lắp đặt hệ thống nối đất cho các công trình công nghiệp, trong đó có nội dung áp dụng cho trạm biến áp phân phối (cao áp/ hạ áp). Tiêu chuẩn này cho phép và khuyến nghị sử dụng một hệ thống tiếp địa chung cho cả thiết bị cao áp và hạ áp trong trạm biến áp, bao gồm cả nối đất chống sét, với điều kiện đảm bảo điện trở đủ thấp:
- Hệ thống nối đất của một trạm biến áp cấp điện cho thiết bị điện hạ áp nên là một hệ thống nối đất chung cho các thiết bị điện cao áp và hạ áp. Hệ thống nối đất chung đó phải nối với các đối tượng: tất cả các phần kim loại của thiết bị cao áp, các chống sét van cao áp, vỏ cáp cao áp và hạ áp, trung tính máy biến áp hạ áp, vỏ máy biến áp, các chống sét van hạ áp, v.v. Nói cách khác, tiêu chuẩn yêu cầu liên kết tất cả các thành phần kim loại và hệ thống tiếp địa về một điểm nối đất chung (thanh cái hoặc cực nối đất chính của trạm).
-
Khi thiết kế hệ thống nối đất cho trạm điện, việc sử dụng một hệ thống nối đất chung cho cả thiết bị cao áp và hạ áp là hoàn toàn khả thi, với điều kiện điện trở nối đất phải nhỏ hơn hoặc bằng 1 Ω. Mức điện trở này được xem là đủ thấp để đảm bảo an toàn cho con người trong trường hợp xảy ra sự cố chạm đất phía cao áp. Cụ thể, nó giúp hạn chế các giá trị điện áp bước và điện áp tiếp xúc xuống mức an toàn, tránh nguy cơ giật điện.
Ngoài ra, mức 1 Ω cũng đáp ứng được yêu cầu nối đất cho mục đích chống sét. Trên thực tế, điện trở 1 Ω là một giá trị rất nhỏ, thậm chí tốt hơn nhiều so với giá trị 10 Ω thường được khuyến nghị trong các tiêu chuẩn về chống sét. Như vậy, khi hệ thống nối đất đạt được điện trở không lớn hơn 1 Ω, nó được coi là đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về an toàn điện và chống sét.
- Trong trường hợp hệ thống tiếp địa không thể đạt được điện trở nhỏ hơn hoặc bằng 1 Ω, tiêu chuẩn vẫn cho phép sử dụng hệ thống nối đất chung cho thiết bị cao áp và hạ áp. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho con người và thiết bị hạ áp trong tình huống xảy ra sự cố chạm đất phía cao áp, cần phải tuân thủ thêm các yêu cầu bổ sung được quy định tại các mục 9.8 và 9.9 của tiêu chuẩn.
Từ quy định trên, TCVN 9358:2012 cho phép nối chung hệ thống tiếp địa chống sét và làm việc trong trạm 22kV nếu điện trở tiếp địa đủ thấp (≤1 Ω). Nếu không đạt, có thể phải tách riêng điện cực nối đất của trung tính và chống sét, đồng thời thực hiện các biện pháp an toàn bổ sung (như quy định tại 9.9). Tiêu chuẩn này ủng hộ hướng dùng chung vì lợi ích đẳng thế, nhưng đặt nặng vấn đề giới hạn điện trở và điện áp tiếp xúc an toàn.
Tiêu chuẩn TCVN 9385:2012 – Chống sét cho công trình xây dựng (BS 6651:1999) [3]
Tiêu chuẩn TCVN 9385:2012 (hướng dẫn thiết kế, kiểm tra và bảo trì hệ thống chống sét cho công trình xây dựng, tương đương BS 6651:1999) cung cấp các nguyên tắc về chống sét trực tiếp và lan truyền. Mặc dù tiêu chuẩn này áp dụng chủ yếu cho công trình xây dựng dân dụng/công nghiệp nói chung, nhiều nguyên lý có thể tham khảo cho lưới điện 22kV
Trong một công trình, các hệ thống nối đất không nên được xem xét một cách riêng lẻ mà cần được đánh giá tổng thể nhằm đảm bảo sự liên kết đẳng thế giữa chúng. Việc liên kết này đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế nguy cơ chênh lệch điện thế giữa các phần tử kim loại nằm rải rác trong công trình, đặc biệt khi xảy ra hiện tượng phóng điện do sét đánh.
Nếu các hệ thống nối đất hoặc các phần tử kim loại tiếp xúc với đất không được liên kết với nhau hoặc không được cách ly hiệu quả, sự chênh lệch điện thế có thể xuất hiện tại thời điểm dòng điện sét lan truyền trong đất. Điều này dễ dẫn đến phát sinh tia lửa điện giữa các phần tử kim loại, gây nguy hiểm cho con người cũng như thiết bị.
Để phòng tránh hiện tượng này, mọi chi tiết kim loại nằm trong kết cấu công trình hoặc các thiết bị có bộ phận bằng kim loại tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với đất cần được kết nối với hệ thống dây xuống của hệ thống chống sét. Trong trường hợp không thể liên kết, cần đảm bảo các chi tiết đó được cách ly đủ xa để tránh hiện tượng đánh thủng điện môi khi xuất hiện điện áp cao. Mục tiêu cuối cùng là đảm bảo rằng tất cả các thành phần dẫn điện trong công trình có cùng thế điện trong mọi điều kiện, từ đó nâng cao mức độ an toàn và độ tin cậy của hệ thống tiếp địa.
Áp dụng vào thực tế trạm điện: hệ thống nối đất làm việc (trung tính, vỏ máy biến áp, vỏ tủ điện…) chính là các phần kim loại tiếp xúc đất của công trình điện. Theo tinh thần tiêu chuẩn, hoặc là phải cách ly hoàn toàn chúng với hệ thống chống sét (việc này rất khó đảm bảo vì khoảng cách phải đủ lớn, thường >20 m [4] [5], hoặc có vật liệu cách điện đặc biệt), hoặc phải liên kết equipotential (nối đẳng thế) với hệ thống chống sét. Việc “liên kết” ở đây tức là nối chung hoặc dùng dây liên kết giữa hai bãi tiếp địa để san bằng điện thế khi có sét.
Tựu trung, theo TCVN 9385 (và thông lệ quốc tế như IEC 62305 sau này), hệ thống chống sét nên được liên kết với hệ thống tiếp đất của thiết bị điện để đảm bảo đẳng thế. Chỉ khi nào có lý do đặc biệt mới tách rời, và nếu tách rời phải đảm bảo khoảng cách cách điện đủ lớn để tránh phóng điện ngang (side-flash) [6]. Trong các trạm điện quy mô nhỏ (như trạm 22kV phân phối), việc “cách ly hoàn toàn” gần như không khả thi do không gian hạn chế, nên giải pháp an toàn nhất vẫn là nối chung các tiếp địa.
Các quy định khác
Trong hệ thống điện lực và điện công nghiệp, việc thiết kế nối đất cho các thành phần như cột điện cao áp, trạm biến áp và các thiết bị kim loại liên quan là một yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo an toàn vận hành và phòng chống các hiện tượng nguy hiểm như điện giật hoặc phóng điện do sét.
Các kết cấu kim loại trong trạm như xà đỡ, dây néo, thân cột, vỏ thiết bị điện,… đều phải được nối trực tiếp vào hệ thống tiếp địa, giúp đảm bảo rằng chúng luôn có cùng điện thế với mặt đất và không tạo ra điện áp chênh khi có dòng sự cố. [6]
Một trong những giải pháp phổ biến là lắp đặt một mạch vòng tiếp địa bao quanh toàn bộ khu vực trạm. Mạch vòng này giúp liên kết tất cả các cọc tiếp địa lại với nhau, từ đó làm giảm tổng trở nối đất của hệ thống và đảm bảo tính đẳng thế trong khu vực.
Cách tiếp cận này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nối chung hệ thống tiếp địa giữa các thiết bị, đồng thời nâng cao hiệu quả trong việc tản dòng điện sự cố xuống đất. [6]
Luật Điện lực 2004 và Luật sửa đổi 2012: quy định tổ chức, cá nhân hoạt động điện lực phải tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn điện. Nối đất là một phần của an toàn chống điện giật và chống sét.
Nghị định 14/2014/NĐ-CP (ngày 26/02/2014) – Quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về an toàn điện (hiện nay được thay thế bởi NĐ 17/2018/NĐ-CP và NĐ 51/2020/NĐ-CP ở một số nội dung): Nghị định yêu cầu rõ các đường dây và trạm điện phải có hệ thống nối đất bảo vệ.
Tổng hợp lại, không có văn bản pháp lý nào bắt buộc tách riêng hai hệ thống tiếp địa. Ngược lại, định hướng của các văn bản và hướng dẫn là đảm bảo an toàn nối đất theo tiêu chuẩn kỹ thuật, tức là khuyến khích liên kết tất cả các hệ thống tiếp đất của cùng một công trình điện để triệt tiêu chênh lệch điện áp khi có sự cố sét hoặc sự cố điện.
Phân tích kỹ thuật: Nên hay không nên nối chung hai hệ thống tiếp địa?
Lợi ích và điều kiện khi nối chung hệ thống tiếp địa
Đảm bảo đẳng thế, an toàn cho người và thiết bị: Khi nối chung, toàn bộ các kết cấu kim loại và thiết bị điện được liên thông với nhau qua một lưới tiếp địa duy nhất. Điều này ngăn ngừa tình trạng có hai điểm kim loại gần nhau nhưng lại ở điện thế khác nhau khi có sét hoặc sự cố.
Ví dụ, nếu kim thu sét và vỏ máy biến áp được nối chung đất, khi sét đánh vào kim, vỏ máy biến áp cũng lên cùng điện thế và không phát sinh tia lửa điện giữa chúng. Người đứng tại trạm sẽ không tiếp xúc hai điện thế khác nhau nên tránh bị điện giật do chênh lệch điện áp bước/touch.
Giảm điện trở nối đất tổng thể: Dùng chung thường đồng nghĩa với việc kết hợp nhiều điện cực nối đất lại (các cọc của chống sét + cọc của trung tính, v.v.). Các điện cực song song làm giảm điện trở tương đương của hệ thống. Nhờ đó, điện trở tiếp địa chung có thể đạt giá trị thấp hơn so với mỗi hệ thống riêng rẽ. TCVN 9358 khuyến cáo làm mạch vòng nối đất bao quanh trạm và nối ít nhất hai đường dẫn xuống đất ở các góc đối diện, mục đích chính là giảm điện trở và đảm bảo dòng sự cố/sét phân tán đều.
Dòng sét phân tán an toàn hơn: Khi sét đánh, dòng sét sẽ theo hệ thống tiếp địa chung tỏa vào đất qua nhiều nhánh song song (các cọc, băng tiếp địa…). Điện cảm và điện trở trải rộng giúp giảm biên độ tăng điện áp đột ngột tại một điểm.
Hơn nữa, một phần dòng sét có thể đi vào lưới trung tính và lan truyền trên đường dây trung tính (đã nối đất tại nhiều điểm khác), giảm bớt năng lượng tập trung tại trạm. Điều này phù hợp với nguyên tắc “equipotential bonding” trong IEC: nối các hệ thống với nhau để chia sẻ năng lượng quá điện áp.
Thiết bị được bảo vệ toàn diện hơn: Nối chung nghĩa là chống sét van cao áp, chống sét van hạ áp, vỏ thiết bị, trung tính… đều trên cùng một nền tiếp địa. Khi có quá điện áp (do sét hoặc sự cố), các chống sét van sẽ dẫn xung điện xuống đất chung nhanh chóng, giữ cho điện áp đặt lên thiết bị không quá cao so với vỏ. Nếu chống sét van 22kV phóng điện, dòng qua chống sét van xuống đất sẽ kéo theo vỏ máy biến áp (cũng nối đất chung) lên điện thế gần bằng, tránh đánh thủng cách điện máy biến áp.
Đơn giản trong thi công và kiểm tra: Xây dựng một hệ thống tiếp địa chung giúp tiết kiệm chi phí so với làm hai hệ thống riêng rẽ cách ly nhau (vì vẫn phải đạt điện trở yêu cầu cho từng hệ thống). Việc đo kiểm tra điện trở cũng thuận tiện: chỉ cần đo một hệ, không lo ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hệ thống. (Lưu ý: nhiều thiết kế vẫn bố trí cầu nối tách giữa tiếp địa trung tính và tiếp địa chống sét để có thể tháo rời khi đo kiểm từng phần, nhưng khi vận hành bình thường thì cầu này luôn được nối liền).
Tuy nhiên, để nối chung an toàn, cần thỏa mãn điều kiện bắt buộc: điện trở nối đất đủ nhỏ theo tiêu chuẩn. Như đã nêu, TCVN 9358 đưa ra mốc 1 Ω cho trạm cao áp-hạ áp. Trên thực tế, đạt 1 Ω không dễ, nhưng người thiết kế nên cố gắng ≤2–4 Ω tùy theo quy định đơn vị quản lý, và càng thấp càng tốt. Nếu địa chất xấu, cần tăng số lượng cọc, dùng cọc dài hơn, hoặc bố trí thêm băng đồng/thuốc giảm điện trở. Đây là điểm then chốt: Nếu không đảm bảo điện trở nhỏ, việc nối chung có thể gây nguy hiểm.
Rủi ro và biện pháp khi tách riêng hệ thống tiếp địa
Mặc dù nối chung là xu hướng, có những trường hợp người thiết kế buộc phải tách riêng tiếp địa làm việc và chống sét. Thông thường lý do gồm: điện trở đất cao không thể giảm thêm, hoặc lo ngại xung sét ảnh hưởng thiết bị nhạy cảm. Khi tách riêng, cần hiểu rõ nguy cơ và tuân thủ các biện pháp an toàn:
Nguy cơ chênh lệch điện thế và “dòng đi lạc”: Khi hệ thống chống sét và hệ thống trung tính không nối với nhau, chúng chỉ “gặp nhau” tại điểm đấu chung trên thiết bị (ví dụ cuộn dây máy biến áp). Trong trường hợp sét đánh, dòng sét đi vào cọc chống sét sẽ nâng điện thế của bãi tiếp địa chống sét lên rất cao so với bãi tiếp địa trung tính (vì không liên thông).
Nếu khoảng cách vật lý hai bãi không đủ lớn [6], sét có thể phóng qua đất ẩm hoặc không khí để tìm đường sang hệ thống kia – gây ra tia lửa ngầm hoặc hồ quang rất nguy hiểm. Thậm chí, ngay cả không có phóng điện trực tiếp, chênh lệch điện thế này cũng đủ gây ra điện áp cảm ứng giữa các kết cấu kim loại gần nhau, có thể phá hủy cách điện của thiết bị điện hạ áp nối với trung tính.
Điện áp bước và tiếp xúc cao: Giả sử chống sét van 22kV phóng sét xuống bãi chống sét riêng, ngay dưới chân trạm vùng đất đó điện thế tăng đột ngột. Trong khi đó vùng đất quanh cọc trung tính (cách đó vài mét) vẫn ở thế gần 0. Người đứng một chân gần cọc chống sét, một chân gần cọc trung tính sẽ gặp điện áp bước rất lớn giữa hai chân. Hoặc người chạm tay vào vỏ thiết bị nối đất trung tính đồng thời chân đứng ở đất gần cọc sét cũng gặp điện áp tiếp xúc lớn. Đây chính là kịch bản nguy hiểm mà tiêu chuẩn tìm cách tránh.
Thiết bị hạ áp có thể bị quá áp: Nếu trung tính hạ áp tách riêng, khi có sự cố cao áp chạm đất, điện áp giữa cuộn cao áp và vỏ máy biến áp tăng cao và có thể truyền sang cuộn hạ áp. Lúc này vỏ thiết bị hạ áp (nối đất trung tính) lại ở điện thế khác xa vỏ máy biến áp, dẫn đến phá hủy cách điện giữa cuộn hạ áp và lõi từ/vỏ, gây sự cố lan sang phía hạ áp. Nối đất chung giúp “kéo” vỏ và trung tính cùng tăng thế, tránh đặt quá điện áp lên cách điện đó.
Để giảm các nguy cơ trên, nếu bắt buộc tách riêng tiếp địa, cần tuân thủ các biện pháp sau:
Vùng đẳng thế cục bộ: Đảm bảo người vận hành không đứng tại vị trí có thể chạm đồng thời vào phần nối đất chống sét và phần nối đất trung tính. Thực tế, nếu tách riêng, nên coi vùng gần cột/trạm là vùng tiếp địa sét – tránh tiếp xúc, còn vùng trung tính có thể đặt tại vị trí người thường đứng thao tác (ví dụ gần chân cột khác hoặc xa trạm). Ngoài ra, có thể lát thảm cách điện hoặc rào chắn để ngăn người/động vật bước qua hai vùng đất có điện thế khác nhau khi có sét.
Khoảng cách độc lập về điện: Đặt hai hệ thống cọc tiếp địa đủ xa nhau để vùng ảnh hưởng của mỗi cọc không giao thoa. Thông thường, khoảng cách ≥20 m [4] [5] được coi là đủ độc lập (con số kinh nghiệm: gấp 2 lần độ sâu cọc dòng khi đo điện trở của mạng lưới).
Nếu trạm nhỏ không đạt khoảng cách này, có thể bố trí sao cho cọc trung tính ở phía đối diện với cọc sét, tận dụng tối đa khoảng cách chéo. Tiêu chuẩn 9358 yêu cầu điện cực nối đất độc lập phải “độc lập về điện” nghĩa là ảnh hưởng điện trở qua lại không đáng kể.
Sử dụng thiết bị đẳng thế tạm thời khi có giông sét: Một số đơn vị vận hành áp dụng giải pháp nối tạm hai hệ thống bằng dây đồng mềm khi có mưa giông nhằm đảm bảo đẳng thế, sau đó tháo ra để đo kiểm định kỳ. Tuy nhiên, cách này không phổ biến và khó thực hiện kịp thời, chỉ nêu như biện pháp bổ trợ tạm thời.
Bảo vệ quá áp cho hạ áp: Nếu trung tính tách riêng, nên lắp các thiết bị chống sét van hạ áp nối giữa pha 0,4kV và đất trung tính, cũng như giữa trung tính và đất chống sét (thông qua khe hở phóng điện hoặc ống chống sét). Mục đích là nếu xuất hiện chênh lệch quá lớn, thiết bị sẽ phóng điện tạo đường nối tắt tạm thời, bảo vệ cách điện thiết bị. TCVN 9358 cũng liệt kê chống sét van hạ áp phải nối đất vào hệ thống (trong trường hợp này mỗi chống sét van hạ áp sẽ về đất trung tính riêng)
Đo kiểm định kỳ cả hai hệ thống: Mỗi hệ thống tiếp địa tách riêng phải tự đảm bảo điện trở theo yêu cầu riêng (≤4 Ω cho trung tính, ≤10 Ω cho chống sét chẳng hạn). Phải đo từng hệ thống độc lập và đảm bảo thông số luôn đạt; nếu một bên tăng cao thì nguy cơ lại càng lớn. Việc tách riêng đòi hỏi duy trì hai hệ thống tốt, chi phí bảo trì nhân đôi.
Từ phân tích trên, có thể thấy tách riêng hai hệ thống tiếp địa không phải giải pháp tối ưu trừ phi điều kiện hiện trường bắt buộc. Các tiêu chuẩn hiện đại luôn hướng tới nối đất chung và liên kết đẳng thế tất cả các hệ thống trong cùng một trạm điện. Tách riêng chỉ là biện pháp cuối cùng khi không đạt yêu cầu điện trở hoặc cấu hình hệ thống đặc biệt.
Khuyến nghị: Đối với thiết kế mới, chủ đầu tư và đơn vị thiết kế nên ưu tiên phương án một hệ thống tiếp địa chung cho trạm biến áp 22kV và các thiết bị 22kV trên đường dây (cột có chống sét van). Phương án này phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn hiện hành, giảm thiểu rủi ro và đơn giản hóa quản lý. Chỉ xem xét phương án tách riêng khi đã đánh giá đầy đủ rủi ro và có biện pháp giảm thiểu đi kèm, cũng như phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý điện lực nếu có.
Tham chiếu
[1] Tiêu chuẩn TCVN 4756:1989 – Quy phạm nối đất và nối không thiết bị điện
[2] Tiêu chuẩn TCVN 9358:2012 – Lắp đặt hệ thống nối đất cho công trình công nghiệp
[4] Sổ tay Megger “Getting Down to Earth”
[6] Hiện tượng tăng đột ngột của điện thế tại điểm nối đất khi có dòng sét đánh vào hệ thống (Hiện tượng Ground Potential Rise (GPR))